Scholar Hub/Chủ đề/#bê tông nhẹ/
Bê tông nhẹ là một loại vật liệu xây dựng được tạo ra bằng cách kết hợp bê tông thông thường với các hạt nhẹ như xơ co, than cám, tro bay hoặc bọt biển. Sự pha ...
Bê tông nhẹ là một loại vật liệu xây dựng được tạo ra bằng cách kết hợp bê tông thông thường với các hạt nhẹ như xơ co, than cám, tro bay hoặc bọt biển. Sự pha trộn này giúp giảm trọng lượng của bê tông và tăng khả năng cách nhiệt, cách âm của vật liệu. Bê tông nhẹ thường được sử dụng trong các công trình xây dựng nhẹ như nhà ở, vách ngăn, trần nhà, v.v.
Bê tông nhẹ, còn được gọi là bê tông gắn nhẹ, là một loại vật liệu xây dựng được tạo ra bằng cách thêm các hạt nhẹ vào trong hỗn hợp bê tông thông thường. Các hạt nhẹ bao gồm xơ co (thường từ xơ dừa, cây hương, cây bông, v.v.), than cám, tro bay (các phụ phẩm từ quá trình đốt than), bọt biển hoặc bọt nhựa.
Sự kết hợp giữa bê tông và các hạt nhẹ này tạo ra một vật liệu có độ rắn và chịu lực tương đối, nhưng lại có khối lượng nhẹ hơn so với bê tông thông thường. Do đó, bê tông nhẹ có thể giảm được tải trọng vào kết cấu và mang lại nhiều lợi ích trong việc thi công và sử dụng.
Một số ưu điểm của bê tông nhẹ bao gồm:
1. Trọng lượng nhẹ: Bê tông nhẹ có khối lượng nhẹ hơn so với bê tông thông thường, từ đó giảm tải trọng và giúp giảm chi phí xây dựng.
2. Cách nhiệt và cách âm tốt: Do sự pha trộn các hạt nhẹ, bê tông nhẹ có khả năng cách nhiệt và cách âm tốt hơn so với bê tông thông thường, giúp điều hoà nhiệt độ và giảm tiếng ồn từ bên ngoài.
3. Dễ thi công: Bê tông nhẹ dễ được cắt, khoan và đóng khuôn theo yêu cầu, giúp việc thi công nhanh chóng và linh hoạt.
4. Khả năng chống cháy: Bê tông nhẹ có khả năng chống cháy tốt hơn so với bê tông thông thường, từ đó giúp tăng cường tính an toàn cho công trình.
Bê tông nhẹ thường được sử dụng trong các công trình nhà ở, vách ngăn, trần nhà, sàn nhà, tiếng chống cháy và điều hoà nhiệt độ. Ngoài ra, bê tông nhẹ cũng có thể được ứng dụng trong công trình giao thông, như làm cầu, làm đường và làm bãi đỗ xe.
Bê tông nhẹ có thể được phân loại thành hai loại chính: bê tông nhẹ cốt xơ và bê tông nhẹ cốt thép.
1. Bê tông nhẹ cốt xơ: Loại bê tông này sử dụng xơ co (từ xơ dừa, cây bông, cây hương, vv) làm hạt nhẹ để giảm trọng lượng. Xơ co được bổ sung vào hỗn hợp bê tông trước khi trộn. Hạt xơ co tăng cường tính nhẹ của bê tông, tạo ra một vật liệu rỗng bên trong với khối lượng nhẹ hơn so với bê tông thông thường. Bê tông nhẹ cốt xơ thường được sử dụng trong các ứng dụng xây dựng nhẹ như làm tường, sàn, vách ngăn, vv.
2. Bê tông nhẹ cốt thép: Loại bê tông này sử dụng thép làm hạt nhẹ để giảm trọng lượng. Thép làm hạt nhẹ được sử dụng để thay thế phần nước trong quá trình trộn bê tông. Khi trộn, tiny thép trong hỗn hợp bê tông tạo ra một lớp bao phủ xung quanh các hạt nhỏ hơn của vật liệu, tạo ra một mạng lưới sợi thép trong bê tông. Bê tông nhẹ cốt thép thường có độ bền cơ học cao hơn so với bê tông nhẹ cốt xơ, nhưng cũng có độ rắn và chịu lực thấp hơn so với bê tông thép thông thường.
Cả bê tông nhẹ cốt xơ và bê tông nhẹ cốt thép đều có những ưu điểm và ứng dụng riêng. Việc lựa chọn loại bê tông nhẹ phù hợp phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể của công trình và điều kiện sử dụng. Ngoài ra, việc sử dụng bê tông nhẹ cần tuân thủ các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn xây dựng để đảm bảo an toàn và chất lượng công trình.
Tổng quan về việc tích hợp các cấu trúc lưới gradient nhẹ trong các bộ phận sản xuất theo công nghệ đắp dần Dịch bởi AI Advances in Mechanical Engineering - Tập 12 Số 6 - Trang 168781402091695 - 2020
Bài tổng quan này phân tích thiết kế, hành vi cơ học, khả năng sản xuất, và ứng dụng của các cấu trúc lưới gradient được sản xuất bằng công nghệ đắp dần kim loại. Bằng cách thay đổi các tham số thiết kế như kích thước ô, chiều dài thanh, và đường kính thanh của các ô đơn vị trong cấu trúc lưới, một thuộc tính gradient được hình thành để đạt được các mức độ chức năng khác nhau và tối ưu hóa tỷ lệ giữa độ bền và trọng lượng. Cấu trúc lưới gradient cung cấp khả năng nén và độ rỗng có thể thay đổi; và có thể kết hợp hơn một loại ô đơn vị với các hình học khác nhau, dẫn đến các hành vi cơ học khác nhau qua từng lớp khi so với các cấu trúc lưới không gradient. Các kỹ thuật đắp dần có khả năng sản xuất các phần nhẹ phức tạp như cấu trúc lưới đồng nhất và gradient do đó, tạo ra sự tự do thiết kế cho các kỹ sư. Mặc dù có những ưu điểm này, việc sản xuất cấu trúc lưới theo kỹ thuật đắp dần cũng có những nhược điểm riêng. Các quy tắc và chiến lược để vượt qua các giới hạn này đã được thảo luận và các đề xuất cho nghiên cứu tương lai đã được đưa ra.
#lattice structures #additive manufacturing #gradient properties #mechanical behavior #design optimization #metallic technology #design freedom #manufacturing constraints
Nghiên cứu sử dụng hạt vi cầu rỗng từ tro bay thay thế một phần cốt liệu nhỏ cho chế tạo bê tông nhẹ chịu lựcBài báo này trình bày kết quả nghiên cứu sử dụng các hạt vi cầu rỗng từ tro bay, còn gọi là hạt cenosphere(FAC) thay thế một phần hoặc hoàn toàn cốt cốt liệu nhỏ trong bê tông để chế tạo loại bê tông nhẹ chịu lực với khối lượng thể tích (KLTT) trong khoảng từ 1300 đến 1800 kg/m3, cường độ nén trên 40 MPa. Cát được sử dụng thay thế một phần cenospheres ở các tỷ lệ cát/FAC là 0, 20, 40, 60, 80 và 100 % theothểtích. Kết quả thí nghiệm cho thấy, khi thay thế cát bởi FAC, khối lượng thể tích của bê tông giảm tương ứng, từ 2180 kg/m3 của mẫu 100 % cát xuống còn 1312 kg/m3 khi thay thế hoàn toàn cốt liệu cát bằng FAC. Tuy nhiên, các tính chất cơ học cơ bản của bê tông sử dụng FAC như cường độ nén, cường độ uốn, mô đun đàn hồi bị giảm, độ hút nước tăng, mặc dù cường độ riêng (tỷ lệ cường độ nén so với KLTT) tăng đáng kể.
#Hạt vi cầu rỗng từ tro bay #Bê tông nhẹ #Bê tông nhẹ chịu lực #Cenospheres #Bê tông nhẹ cường độ cao #Cốt liệu nhẹ
Nghiên cứu chế tạo bê tông nhẹ tự lèn từ tro bayNghiên cứu chế tạo cốt liệu nhẹ nhân tạo (LWA) từ nguồn vật liệu địa phương và tro bay từ nhà máy nhiệt điện tại khu vực Đồng bằng sông Cửu long (ĐBSCL) bằng phương pháp liên kết nguội. Qua các thử nghiệm cho thấy có thể sản xuất LWA từ tro bay có khối lượng thể tích thấp (1,002 g/cm3), độ hút nước của cốt liệu đạt 15,67 % cao hơn so với đá tự nhiên (5,21 %) và cường độ nén từng viên của LWA được sản xuất đạt 1,08 MPa với hàm lượng 8 % xi măng và LWA được ứng dụng vào thay thế 100% thể tích của đá dăm trong hỗn hợp bê tông tự lèn với các tỷ lệ w/c khác nhau. Kết quả cho thấy bê tông nhẹ tự lèn được sản xuất trong nghiên cứu có độ sụt cao nằm trong khoảng từ 250 mm đến 270 mm và đường kính chảy loang từ 550 mm đến 650 mm đạt yêu cầu về bê tông tự lèn theo tiêu chuẩn TCVN 12209:2018, khối lượng thể tích khô của bê tông sử dụng LWA nhỏ hơn 12 % đến 16 % so với các trường hợp cấp phối bê tông sử dụng đá tự nhiên. Độ hút nước thấp và cường độ đạt khoảng 90 % đến 97 % so với các cấp phối bê tông sử dụng đá tự nhiên và tất cả các cấp phối bê tông nhẹ tự lèn được sản xuất đạt tiêu chuẩn ASTM C330 và ACI 318. Qua các kết quả phân tích đánh giá tính chất của LWA và bê tông nhẹ tự lèn được sản xuất trong nghiên cứu có thể chứng minh được tiềm năng ứng dụng tro bay vào sản xuất LWA và ứng dụng vào chế tạo bê tông nhẹ tự lèn kết hợp với phụ gia khoáng (Fly ash, silica fume) thay thế xi măngtrong nghiên cứu giúp cải thiện đáng kể được tính chất của bê tông.
#Tro bay #Phương pháp liên kết nguội #Bê tông nhẹ #Bê tông tự lèn #Cốt liệu nhẹ
Nghiên cứu chế tạo bê tông nhẹ sử dụng hạt Polystyrene phồng nở tái chếTạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (TCKHCNXD) - ĐHXDHN - Tập 15 Số 1V - Trang 72-83 - 2021
Bê tông nhẹ cốt liệu rỗng đang được nghiên cứu và ứng dụng khá rộng rãi trong các công trình xây dựng hiện nay với các ưu điểm làm giảm nhẹ cho các kết cấu đồng thời tăng khả năng cách âm, cách nhiệt tăng hiệu quả năng lượng cho công trình xây dựng. Bài báo này sẽ đưa ra những kết quả ban đầu về việc sử dụng cốt liệu rỗng polystyrene tái chế trong chế tạo bê tông nhẹ. Các kết quả nghiên cứu về việc sử dụng cốt liệu rỗng polystyrene tái chế (rEPS) để chế tạo bê tông nhẹ với khối lượng thể tích đạt từ 1000 - 1500 kg/m3 và cường độ nén từ 5,0 - 15 MPa. Kết quả nghiên cứu được thực hiện trên 08 cấp phối với các tỷ lệ N/CKD là 0,25 và 0,30; hàm lượng cốt liệu nhẹ sử dụng 25%, 30%, 40% và 50% theo thể tích của bê tông. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi hàm lượng cốt liệu nhẹ tăng thì khối lượng thể tích giảm. Tuy nhiên, độ hút nước mao quản và cường độ nén của bê tông có xu hướng giảm. Kết quả đánh giá hệ số dẫn nhiệt của bê tông theo công thức thực nghiệm của ACI213 R14 cho thấy hệ số dẫn nhiệt của bê tông giảm khi tăng hàm lượng cốt liệu nhẹ.
Từ khóa:
bê tông nhẹ; polystyrene tái chế; khối lượng thể tích; độ hút nước mao quản; cường độ nén, hệ số dẫn nhiệt.
Nghiên cứu chế tạo bê tông nhẹ geopolymer trên cơ sở tro bay, xỉ nhiệt điện và chất tạo khí H2O2Nghiên cứu sử dụng chất tạo khí hydrogen peroxide (H2O2) kết hợp với tro bay và xỉ đáy nhằm hoạt hóa trong môi trường geopolymer. Thành phần xỉ đáy sử dụng với hàm lượng 20 % đến 100 % trong cấp phối vữa. Kết quả thực nghiệm cho thấy thành phần dung dịch hoạt hóa với tỷ lệ 0,4 đến 0,8 với tro bay có tác dụng làm tăng độ linh động đến 70 % cho vữa geopolymer và cường độ nén tăng đến 50 %. Vữa geopolymer dùng xỉ đáy thay thế hoàn toàn cát làm tăng độ linh động đến 30 % và thời gian chảy đạt khoảng 10 giây đến 11 giây. Tuy nhiên cường độ hoạt hóa có xu hướng giảm đến 40 %. Chất tạo bọt H2O2 sử dụng với hàm lượng 1 % đến 5 % có khả năng làm việc với môi trường dung dịch hoạt hóa làm cho vữa có khả năng phồng nở đến hơn 40 %. Quá trình hoạt hóa cho thấy cường độ của bê tông phụ thuộc vào hàm lượng chất tạo bọt và hàm lượng dung dịch hoạt hóa. Việc sử dụng kết hợp chất tạo bọt H2O2 và tro bay – xỉ đáy có khả năng chế tạo bê tông nhẹ theo công nghệ geopolymer.
#Tro bay #Xỉ than #Độ linh động #Cường độ #Hoạt hóa #Geopolymer hóa
Ảnh hưởng của hạt cốt liệu nhẹ tái chế từ phế thải phá dỡ công trình xây dựng đến một số tính chất cơ lý của bê tông nhẹTạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (TCKHCNXD) - ĐHXDHN - Tập 13 Số 4V - Trang 94-102 - 2019
Trong những năm gần đây ô nhiễm môi trường đang ngày càng nghiêm trọng, một trong những nguyên nhân đó là do phế thải xây dựng từ các công trình. Việc tái sử dụng phế thải phá dỡ công trình xây dựng là một xu hướng tất yếu, xu hướng phát triển bền vững mà các quốc gia đang hướng đến. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm về việc chế tạo bê tông nhẹ sử dụng hạt cốt liệu nhẹ chế tạo từ phế thải phá dỡ công trình xây dựng với thành phần gạch và vữa xây, sau đó đánh giá đặc trưng cơ lý quan trọng của loại bê tông này là cường độ chịu nén. Kết quả thực nghiệm cho thấy từ các hạt cốt liệu nhẹ chế tạo từ phế thải khối vữa xây (gồm gạch và vữa) có thể tạo ra được loại bê tông nhẹ có khối lượng thể tích nhỏ hơn 1800 kg/m3 với cường độ chịu nén có thể đạt tới 20 MPa ở tuổi 28 ngày và đạt trên 25 MPa ở tuổi 90 ngày. Loại bê tông này có thể sử dụng làm bê tông nhẹ chịu lực cho công trình xây dựng, đem lại lợi ích cho công trình đồng thời giúp giải quyết những vấn đề do PTXD sinh ra, lại giúp giảm bớt việc sử dụng quá tải các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Từ khóa:
bê tông nhẹ; phế thải phá dỡ công trình xây dựng; hạt cốt liệu nhẹ; khối lượng thể tích; cường độ chịu nén; hệ số phẩm chất.
Sử dụng vật liệu địa phương chế tạo bê tông keramzitĐể nâng cao khả năng cách nhiệt đồng thời giảm tải trọng công trình và chi phí xây dựng, một giải pháp có hiệu quả là sử dụng bê tông nhẹ cốt liệu rỗng keramzit. Bê tông keramzit được nghiên cứu và ứng dụng chủ yếu ở miền Bắc và miền Nam nhưng chưa phát triển mạnh, sản lượng không cao và ổn định. Bài báo thể hiện kết quả nghiên cứu sử dụng nguyên liệu địa phương chế tạo bê tông keramzit. Bằng phương pháp quy hoạch thực nghiệm, xác định được thành phần tối ưu chế tạo bê tông keramzit có khối lượng thể tích là 1601,47 kg/m3, cường độ chịu nén Rn28 là 26,7 MPa thích hợp làm sàn, dầm, cột,… trong các công trình xây dựng, mang lại ý nghĩa: tận dụng nguyên liệu địa phương, mở rộng quy mô sản xuất và ứng dụng loại bê tông này tại miền Trung và Tây Nguyên.
#bê tông keramzit #cốt liệu rỗng #cách nhiệt #xây dựng #phương pháp quy hoạch thực nghiệm #bê tông nhẹ
Sử dụng cát trắng địa phương chế tạo bê tông nhẹỞ nước ta, nhiều nơi có trữ lượng cát hạt mịn rất lớn. Sử dụng loại cát này trong bê tông xi măng sẽ làm giảm độ lưu động, giảm cường độ và tăng lượng dùng xi măng. Bài báo thể hiện kết quả nghiên cứu sử dụng loại cát trắng – cát mịn tại địa phương Đà Nẵng để chế tạo bê tông nhẹ cốt liệu rỗng từ hạt polystyrol. Bê tông này khá mới mẻ trên thị trường, việc nghiên cứu thành phần và công nghệ sản xuất chưa đầy đủ và đồng bộ. Bằng phương pháp quy hoạch thực nghiệm, xác định được thành phần tối ưu chế tạo được bê tông có khối lượng thể tích 1032,36 kg/m3, cường độ 28 ngày là 6,46 MPa thích hợp làm tấm, panel tường nhẹ, gạch block,…trong các công trình xây dựng. Trên cơ sở kết quả đạt được, bài báo cũng đề xuất quy trình công nghệ chế tạo bê tông polystyrol, có thể ứng dụng trong các nhà máy sản xuất bê tông tại Đà Nẵng cũng như tại miền Trung.
#polystyrol #bê tông nhẹ #cốt liệu rỗng #cát mịn #xây dựng
Giải pháp kết cấu cầu dầm T kép bê tông dự ứng lực thi công đổ tại chỗCác kết cấu cầu dầm bê tông đổ tại chỗ có ưu điểm tính toàn khối cao, có thể áp dụng công nghệ đổ tại chỗ trên đà giáo cố định hoặc đà giáo di động (MSS). Nghiên cứu áp dụng các kết cấu cầu tải trọng bản thân nhẹ là cần thiết phù hợp loại hình công nghệ này. Hiện nay các cầu thi công đổ tại chỗ trên đà giáo cố định và đà giáo di động thường có các mặt cắt dạng hình hộp hoặc bản rỗng. Việc bố trí các ván khuôn trong khiến việc thi công kéo dài và phức tạp hơn. Bài báo này trình bày một giải pháp kết cấu cầu dầm mặt cắt chữ T kép đặc, không lõi, thi công đổ tại chỗ, hình dạng lai giữa T và hộp, dễ thi công. Nghiên cứu này tập trung phân tích và so sánh giữa dầm T kép với các loại dầm tương đương đang được sử dụng tại Việt Nam. Kết luận cho thấy kết cấu này có trọng lượng bản thân nhỏ, ổn định có thể áp dụng tại các vị trí cầu cạn, cầu vượt, các nút giao với đà giáo cố định hoặc cũng có thể áp dụng cho các cầu qua sông theo công nghệ đà giáo di động.
#Dầm bê tông dự ứng lực #Dầm T kép #Dầm đổ tại chỗ #Dầm nhẹ
Ảnh hưởng của chế độ dưỡng hộ đến cường độ chịu nén của bê tông nhẹ sử dụng hạt vi cầu rỗng từ tro bay: Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các chế độ dưỡng hộ khác nhau đến cường độ chịu nén của bê tông nhẹ kết cấu cường độ cao, sử dụng hạt vi cầu rỗng từ tro bay (còn gọi là hạt cenosphere - FAC) và hệ chất kết dính đa cấu tử (xi măng kết hợp với phụ gia khoáng). Các kết quả nghiên cứu cho thấy, ở chế độ dưỡng hộ autoclave (2100C, 2MPa) cường độ nén của bê tông cao hơn so với mẫu dưỡng hộ ở chế độ dưỡng hộ nhiệt ẩm (700C và 900C, RH ≥ 95%) và dưỡng hộ tiêu chuẩn (27 ± 20C, RH ≥ 95%). Cường độ nén cao nhất đạt được gần 80 MPa khi dưỡng hộ autoclave, tăng gần 20% so với mẫu bảo dưỡng theo chế độ dưỡng hộ tiêu chuẩn.
Abstract
This paper presents the research results of the influence of different curing regimes on the compressive strength of structural lightweight concrete, using fly ash cenosphere (FAC) and multi-component binder system (cement combined with mineral additives). The experimental results show that the curing regimes influence significantly the development of the compressive strength of concrete, in which the autoclave curing (2100C, 2MPa) improves the compressive strength higher compared with others (post-heat treatment curing (700C and 900C, W ≥ 95%) and standard curing (27 ± 20C, W ≥ 95%)). The highest compressive strength was nearly 80 MPa, approximately 20% higher than the standard curing sample.
#Bê tông nhẹ #hạt vi cầu rỗng từ tro bay #cường độ nén #chế độ dưỡng hộ #Lightweight concrete #fly ash cenospheres #compressive strength #curing regimes